1.2
Điền Mạn Địch từ chối cho ý kiến, chỉ chăm chú quan sát khắp nhà hàngnày. Người mà Mã gia muốn cô đến tìm là kiểu người nào vậy? Y thực sự có khả năng xoay chuyển tình thế, cứu Nghĩa Lý Hòa ư? Nếu thực sự y có thể hô mưa gọi gió như thế, thì sao lại phải ẩn cư ở một tiệm cơm hẻo lánh không người biết đến thế này? Vị cao nhân này đã bao nhiêu tuổi, trông như thế nào nhỉ – cô đoán, nhất định là một vị tiền bối khí thế mưa rền gió cuốn rồi.
Lẽ nào thực sự là người đánh cá ngoài kia?
Cô không nhịn được liếc ra ngoài. Mặt trời đã khuất hẳn sau biển, trên mặt nước là một màu xanh thẫm, thủy triều nhất thời dâng lên; mà người phụ nữ kia vẫn chưa khoa chân mua tay xong với chồng mình. Cô hơi mất kiên nhẫn, đang định đứng dậy thì bỗng có một người bước vào từ cửa bếp.
Đó là một thanh niên khá trẻ, tầm 25 26 tuổi, da trắng, nhìn rất anh tuấn, sau đầu buộc một túm tóc nhỏ, mặc áo ba lỗ vàng và quần đùi đen, sau lưng đeo một cái sọt, tay còn cầm cần câu. Bước vào nhà rồi, y cũng chẳng nói gì hay để ý đến ai, chỉ để cái sọt lên bàn bếp, đổ dầu vào chảo, bật lửa rồi quay sang lấy ba bát lớn, một túi bột mì và ba quả trứng gà từ tủ lạnh ra.
Tư Mã Cửu Long đẩy đẩy Điền Mạn Địch, ý bảo cô nhìn người thanh niên này. Chỉ thấy người nọ ném túi bột lên rồi dùng hai ngón tay kẹp lấy, khẽ nghiêng, bột mì liền theo đó đổ xuống bát. Đập ba quả trứng gà cho vào, ném vỏ trứng đi, ngón tay cho vào khuấy loạn một hồi. Lau thớt gỗ, lấy ra một con cá còn sống từ trong gùi, tay trái cầm cá tay phải cầm dao, thuần thục sát vảy mổ bụng. Cuối cùng là chia cá làm hai phần; một phần cho vào trứng rồi lăn qua bột – ngón tay y vẫn không dính chút dịch trứng hay hạt bột nào; còn đuôi cá vẫn còn giãy giãy thì được cho vào chảo dầu đã sôi, nhất thời, trong phòng vang lên tiếng tí ta tí tách.
Cô lại ngồi xuống. Gã thấp giọng nói: “Người này không đơn giản.”
Cô ra hiệu ý bảo gã nói tiếp. Dù sao thì gã cũng xuất thân là Hồng côn, kỹ năng đánh đấm chính là cần câu cơm đấy, nên hiểu biết về phương diện này thì khỏi phải bàn: “Chị nghĩ túi bột mì kia nặng bao nhiều? Nghe tiếng nó rơi xuống đất thì em đoán phải tầm ba bốn kg – thế mà cậu ta dùng hai ngón tay là đỡ lấy được. Kỹ năng làm cá cũng nhanh đến kỳ lạ, đến lúc cho vào nồi mà đuôi cá còn giãy, có khi chính nó còn không biết mình đã chết cũng nên. Cổ tay sử dụng rất thuần thục, có thể đó là một quyền sư*.”
*Quyền sư (拳师): chuyên gia võ thuật. Như Diệp Vấn – Ip Man ấy =))
Chẳng lẽ người mà Mã gia muốn họ đến tìm là một quyền sư?
Một quyền sư thì có thể giúp được cái gì? Ám sát Diệp Bặc chắc? Nhưng bây giờ giết người ai còn dùng nắm đấm nữa, một viên đạn không phải là xong à?
Ánh mắt của Điền Mạn Địch và Tư Mã Cửu Long trở nên phức tạp – cô biết, họ đang cùng có một mối nghi ngờ như nhau. Đúng lúc này, cô chủ của nhà hàng bước vào, vỗ vai cô nói: “Chồng em cũng không biết ai họ Mã đâu. Chị tìm người đó có việc gì? Ông ta là người trên đảo hả?”
Cô chỉ vào thanh niên mới tới: “Đó là ai?”
“Cậu ấy là hàng xóm của bọn em, trong nhà không có bếp nên thường đến đây dùng nhờ, tiền mua than tự trả.”
“Cẩn thận cá cháy.”
Thấy y cho liên tiếp mấy chục con cá vào nồi mà vẫn chưa vớt con nào ra, Tư Mã Cửu Long liền nhắc. Người nọ chẳng buồn nhấc mi mắt lên, nửa phút sau mới cầm lấy cần câu nãy giờ vẫn dựng bên bàn. Gã cả kinh: “Chẳng lẽ cậu muốn câu cá lên?”
Rồi gã lại sửng sốt hơn nữa: “Không thể nào! Không có dây câu thì dùng thế nào được?”
Cô vẫn nhìn chằm chằm nhất cử nhất động của y. Gã vừa dứt lời, cổ tay người nọ liền hạ xuống, đầu cần câu gõ nhẹ lên thành chảo một nhát. Nhìn chỉ như một cái chạm nhẹ khẽ khàng, nhưng toàn bộ cá rán vàng ươm trong chảo lại như chịu một lực đẩy cực lớn, bay vọt lên không trung. Cần câu trong tay y lại sượt qua mấy tấc, nhẹ nhàng đến khó có thể nhận ra – một cơn gió thoảng qua, cá rán lần lượt rơi xuống cái bát trên bếp, từng lát từng lát gọn gàng chỉnh tề, xếp đến đầy một bát.
Tư Mã Cửu Long trợn mắt há hốc mồm, người phụ nữ thì hoan hô vỗ tay bem bép, giọng the thé nói: “Thế nào? Hàng xóm của bọn em lợi hại chứ ~!”
Điền Mạn Địch trầm giọng: “Chính là anh ta.”
Dọn bàn bếp vừa làm cá xong, người nọ liền lấy một chén cơm đầy, rồi mang cả hai đến ngồi ở bàn cạnh bàn Điền Mạn Địch. Cô đuổi người phụ nữ kia đi rồi tự mình rót trà cho y: “Đồ ăn bên chúng tôi còn nhiều, cùng ăn nhé?”
Người nọ không để ý đến cô. Cô buông ấm trà xuống, nói: “Mã gia Mã Quý vừa chết tại nhà.”
Người nọ vẫn thờ ơ. Cô cắn răng, lấy di thư của ông ra, đặt lên bàn. Người nọ khẽ chớp mắt, miệng đang ngậm đầy cá bỗng phun ra hai chữ:
“Bật đèn.”
Lúc này sắc trời đã tối hẳn – đêm ở biển luôn luôn khó lường như thế.
Tư Mã Cửu Long vội chạy đi bật ngọn đèn duy nhất trong phòng lên. Người nọ quét mắt qua bức thư, rồi lại tập trung vào bát cơm của mình. Y bưng bát lên, ăn từng miếng lớn một – lúc bỏ bát xuống thì trong bát đã không còn hạt cơm nào – rồi cầm tờ di thư lên lau miệng.
Tư Mã Cửu Long thấy thanh niên này cùng lắm chỉ xấp xỉ tuổi mình, nhưng hành xử lại không lịch sự chút nào. Y có chút bản lĩnh đấy, nhưng từng đó có đủ để cứu Nghĩa Lý Hòa không? Huống gì y còn chưa chắc là người Mã gia muốn họ tìm! Thế mà y lại cả gan dùng di thư của ông để lau miệng! Gã tức mà không có chỗ phát, liền nhảy đến trước mặt y định nói lý lẽ. Ai ngờ người nọ bỗng nhiên quét mắt về phía gã – đôi mắt ấy đen láy như mực, lạnh lẽo đầy sát khí, làm gã nhất thời ngồi phịch xuống đất.
Giống như gã mang thiên quân vạn mã đến dưới thành địch, khí thế ngất trời, còn địch chỉ cần gõ một tiếng trống, quân gã liền chết sạch không còn manh giáp vậy.
Gã tự nhận mình cũng là một cao thủ, nhưng ai dè người nọ chưa ra nửa chiêu, hai chân gã đã run rẩy không đứng lên được. Thậm chí gã còn không dám ngước lên nhìn y nữa!
Điền Mạn Địch đá gã một cái, thầm mắng: “Đ*o có tiền đồ gì cả!”
Cô cũng cảm nhận được sát khí của người nọ. Nếu không phải vì đã gặp nhiều cảnh giết người không chớp mắt hay máu tươi chảy tràn, có lẽ phản ứng của cô cũng chẳng đẹp đẽ hơn gã là bao.
Giờ phút này, cô đã hoàn toàn khẳng định – thanh niên trẻ tuổi trước mắt đây chính là cứu tinh mà Mã gia nhắc tới trong di thư!
Cô lập tức quỳ xuống đất, hai tay chắp thành quyền, cao giọng nói: “Nghĩa Lý Hòa nước sôi lửa bỏng, cầu mong ngài giang tay cứu giúp!”
Tư Mã Cửu Long cũng lập tức làm theo, hai người cúi đầu, không dám ngẩng lên nhìn người nọ, chỉ mong tấm lòng thành của mình đủ để làm người nọ đồng ý. Chẳng bao lâu sau, hai người nghe thấy tiếng bát đũa lách cách vang lên trên đỉnh đầu. Gã đánh bạo liếc nhìn lên thì thấy – y đã ngồi sang bàn họ từ bao giờ, đang không ngừng gắp cá hấp và ốc biển vào bát. Gã vui vẻ kéo kéo góc áo cô, cô ngẩng lên nhìn, thấy cảnh tượng này thì cực kỳ mừng rỡ, đang định nói thì y bỗng nhiên mở miệng: “Ăn cơm mà không có rượu thật chẳng ngon gì cả.”
Cô vội vàng đứng bật dậy, gọi cô chủ khách sạn đi lấy rượu. Tửu lượng của người nọ cực tốt, uống ba bát lớn mà ánh mắt vẫn rất thanh minh, đôi mắt lạnh lùng kia vừa mới tỏa ra sát khí bức người, nay lại trông cực kỳ bình tĩnh. Tư Mã Cửu Long không khỏi vuốt mồ hôi lạnh – tựa như cái người bừng bừng sát khí kia chỉ là ác mộng của mình gã thôi vậy.
Người nọ hỏi Điền Mạn Địch: “Chết thế nào?”
“Bị bắn vỡ đầu…” Nghĩ đến thảm trạng khi đó, sắc mặt cô trầm xuống.
“Mã Quý năm nay đã sáu lăm tuổi rồi, sao lại chạy về tranh cái ghế chủ tịch với đám thanh niên làm gì?” Nghe y gọi thẳng tên của Mã Quý, hai người không khỏi giật mình. Điền Mạn Địch cẩn thận quan sát y lần nữa.
Bây giờ ngoài trời đã hoàn toàn tối đen, không còn một chút ánh sáng nào; ngọn đèn trong nhà hàng cũng mờ mờ ảo ảo, làm đồ ăn trên bàn gần như chìm trong bóng tối. Lúc trước cô chỉ thấy người này trông rất được, bây giờ nhìn lại mới phát hiện ra: người bình thường khi đứng trong tối đều mờ nhạt đi, nhưng người này thì khác – ngọn đèn phập phù càng làm cho hình ảnh của y thêm chói mắt hơn, thậm chí là hơn cả ban ngày.
Thật kỳ quái.
Rót thêm cho người nọ một bát rượu, cô kể lại cho y vì sao Mã Quý lại về nước rồi dẫn đến ngày hôm nay. Nghe đến đoạn Diệp Bặc là con cháu của Chu Anh Hùng, y đột nhiên thở dài, có phần hối hận nói: “Là tôi tích tội, phải tới tìm tôi mới phải.”
Nói rồi, y đặt bát rượu xuống bàn cái cốp, đứng dậy nói: “Đi thôi.”
“Đi đâu?” Tư Mã Cửu Long thốt lên.
Người nọ nở nụ cười: “Diệp Bặc có thù tất báo, vậy đến phiên chúng ta ăn miếng trả miếng rồi.”
Nói rồi, y bước ra khỏi khách sạn, bước chân nhanh như gió, chẳng mấy chốc đã đi ra bãi cát. Hai người cuống quít trả tiền rồi đuổi theo sau, Điền Mạn Địch hỏi: “Vẫn chưa được biết tên ngài là gì?”
Người nọ không quay đầu lại, vẫn tiếng bước về phía trước, chỉ về phía xa nói: “Trên đường có cây liễu, đúng dịp đêm ba mươi.”
Bốn phía trống trải, nhưng những lời y nói lại như rơi vào vô số ngọn núi, sinh ra muôn vàn âm vang vọng lại.
Tư Mã Cửu Long chẳng hiểu ra sao, Điền Mạn Địch cũng vậy. Đợi người nọ đi được một lúc rồi, cô mới tỉnh ngộ, vỗ gáy thốt lên: “Cây liễu là Liễu, ba mươi là Tạp*, Liễu Tạp! Trùng tên trùng họ với tổ sư gia!”
*Liễu (柳): cây liễu; Tạp (卅): ba mươi.